Theo quy định tại Điều 51.1 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 thì vợ hoặc chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn[1]. Do đó, cả hai vợ và chồng đều có quyền đơn phương ly hôn.
Căn cứ để Tòa án chấp nhận việc đơn phương ly hôn của vợ hoặc chồng là khi có cơ sở pháp lý cho thấy vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân của họ rơi vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được[3].
Trên đây là căn cứ để Tòa án xem xét cho vợ hoặc chồng đơn phương ly hôn. Tuy nhiên, Tòa án sẽ không thụ lý đơn xin đơn phương ly hôn của vợ hoặc chồng khi xảy ra một trong các trường hợp sau đây:
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự theo Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng căn cứ Điều 192.1.(c) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Hết thời hạn quy định tại Điều 195.2 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng;
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án là trường hợp mà theo quy định của pháp luật các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác hoặc đang do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền khác giải quyết. Căn cứ Điều 192.1.(đ) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 4 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP;
- Người yêu cầu ly hôn không sửa đổi, bổ sung đơn yêu cầu trong thời hạn mà Tòa án quy định, căn cứ Điều 193 và Điều 192.1.(e) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; và
- Người yêu cầu rút đơn yêu cầu, căn cứ Điều 192.1.(g) Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Như vậy, khi vợ hoặc chồng đơn phương ly hôn rơi vào các trường hợp nêu trên thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện và không thụ lý hồ sơ.
[1] Điều 51.1 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
[3] Điều 56.1 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Nếu bạn muốn biết thêm thông tin về cách chúng tôi có thể hỗ trợ bạn về các vấn đề về ly hôn, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi theo số điện thoại: +84 (28) 36223522 hoặc email cho chúng tôi tại info@phuoc-partner.com.