Dù quan hệ cha mẹ với con cái phát sinh trong trường hợp cha, mẹ có quan hệ hôn nhân hợp pháp hay không thì khi con được sinh ra cũng đồng nghĩa với việc các bên đã phát sinh quyền và nghĩa vụ với nhau. Theo đó, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ với con và con có quyền và nghĩa vụ với cha mẹ. Cụ thể, cha mẹ có quyền và nghĩa vụ với con như sau[1]:
- Thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội;
- Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
- Giám hộ hoặc đại diện cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự; và
- Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; Không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; Không được xúi giục, ép buộc con làm việc vi phạm pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Khi quan hệ hôn nhân chấm dứt hoặc trong trường hợp hai bên vợ chồng có xảy ra tranh chấp về người trực tiếp nuôi con thì việc xác định người trực tiếp nuôi con sẽ dựa trên thỏa thuận của các bên hoặc do Tòa án quyết định. Và trong trường hợp được Tòa án xác định là người trực tiếp hay không trực tiếp nuôi con, cha, mẹ đều có các quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Tuy nhiên, đối với người vợ hoặc chồng được xác định không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì ngoài các quyền và nghĩa vụ như được nêu trên, còn có quyền và nghĩa vụ sau[3]:
- Tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi;
- Cấp dưỡng cho con; và
- Thăm nom con mà không ai được cản trở.
Tương tự như người vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi con, ngoài quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, người trực tiếp nuôi con còn có thêm một số quyền và nghĩa vụ đối với người vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi con như sau[5]:
- Yêu cầu người vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án;
- Yêu cầu người vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con; và
- Không được cản trở người vợ hoặc chồng không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Như vậy, ngoài những quyền và nghĩa vụ ngang nhau giữa cha và mẹ với các con chung sau khi ly hôn, người vợ hoặc chồng trực tiếp nuôi con và người không trực tiếp nuôi con sau ly hôn còn có thêm một số quyền và nghĩa vụ liên quan việc trực tiếp nuôi con hoặc không trực tiếp nuôi con.
[1] Điều 69 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
[3] Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
[5] Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014.
Nếu bạn muốn biết thêm thông tin về cách chúng tôi có thể hỗ trợ bạn về các vấn đề về ly hôn, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi theo số điện thoại: +84 (28) 36223522 hoặc email cho chúng tôi tại info@phuoc-partner.com.