Câu hỏi 127. Để chứng minh thiệt hại vật chất của doanh nghiệp khi NLĐ tiết lộ các thông tin mật trên truyền thông mạng xã hội (tài sản, uy tín, doanh thu/lợi nhuận, chi phí…) để áp dụng hình thức KLLĐ cho phù hợp nhiều khi rất khó vì nhiều lúc đó là các thiệt hại về tinh thần như danh tiếng, thương hiệu của doanh nghiệp mà khó để có thể định lượng mức độ thiệt hại bằng tiền hay là không thể chứng minh được là doanh nghiệp có thiệt hại. Trong những trường hợp như vậy thì doanh nghiệp nên làm gì?

  1. Nếu một NLĐ của doanh nghiệp đã bị khởi tố vì Tội xâm phạm quyền bình đẳng giới theo Điều 165 Bộ luật Hình sự thì ở góc độ pháp luật lao động NLĐ đó vẫn có thể bị NSDLĐ xử phạt KLLĐ không?

Xử lý hình sự và xử lý KLLĐ là hai phạm trù khác nhau được quy định trong hai bộ luật khác nhau, cụ thể là Bộ luật Hình sự và BLLĐ. Điều này có nghĩa rằng, nếu một NLĐ đã bị khởi tố về một tội danh được quy định trong Bộ luật Hình sự thì không đương nhiên được hiểu rằng NLĐ đó được miễn áp dụng hình thức KLLĐ theo quy định của BLLĐ.

Về mặt nguyên tắc, nếu NSDLĐ có đủ căn cứ rõ ràng chứng minh rằng hành vi của NLĐ là một hành vi vi phạm đã được quy định trong NQLĐ của doanh nghiệp hoặc thỏa thuận trong HĐLĐ giao kết với NLĐ hoặc là các hành vi vi phạm được quy định rõ ràng trong BLLĐ và NSDLĐ đã thực hiện quy trình xử lý KLLĐ đối với NLĐ đúng theo quy định của BLLĐ thì NSDLĐ vẫn có quyền áp dụng các quy định của BLLĐ và NQLĐ của doanh nghiệp để xử lý KLLĐ đối với NLĐ, kể cả khi NLĐ đó đã bị khởi tố về một tội danh của Bộ luật Hình sự.

Tuy vậy, nếu NLĐ đó đang trong thời gian bị cơ quan điều tra có thẩm quyền tạm giam, tạm giữ, hoặc cần phải chờ kết quả của cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra xác minh và có kết luận đối với hành vi vi phạm có dấu hiệu liên quan đến tội trộm cắp, tham ô, đánh bạc, cố ý gây thương tích, sử dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc, tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của NSDLĐ, có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của NSDLĐ hoặc quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong NQLĐ của doanh nghiệp theo quy định tại Điều 125 BLLĐ, thì quyền xử lý KLLĐ của NSDLĐ trong trường hợp này sẽ bị hạn chế trong một thời hạn nhất định.Cụ thể, NSDLĐ sẽ không được phép tiến hành xử lý KLLĐ đối với NLĐ trong thời gian điều tra mà NSDLĐ phải đợi cho đến khi hết thời gian đó, mới có quyền thực hiện các thủ tục xử lý KLLĐ đối với NLĐ theo quy định của BLLĐ.

Một điểm cần lưu ý nữa đó là, nếu tại thời điểm NLĐ không còn bị tạm giam, tạm giữ hoặc không còn chờ kết quả xác minh, kết luận của cơ quan điều tra có thẩm quyền mà thời hiệu xử lý KLLĐ theo quy định của BLLĐ đã hết (thời hiệu xử lý KLLĐ tối đa là 06 tháng, kể từ ngày xảy ra hành vi vi phạm; trong trường hợp hành vi vi phạm liên quan trực tiếp đến tài chính, tài sản, tiết lộ bí mật công nghệ, bí mật kinh doanh của NSDLĐ thì thời hiệu xử lý KLLĐ tối đa là 12 tháng) thì thời hiệu xử lý KLLĐ sẽ được kéo dài thêm 60 ngày kể từ ngày hết thời gian nêu trên để đảm bảo quyền được xử lý KLLĐ của NSDLĐ. 

2. Nếu có quyền xử lý KLLĐ đối với NLĐ vi phạm trong trường hợp nêu trên thì NSDLĐ có thể áp dụng hình thức sa thải không?

Theo quy định tại Điều 125 BLLĐ, NLĐ chỉ bị áp dụng hình thức kỷ luật sa thải khi vi phạm một trong các hành vi sau đây: (i) Trộm cắp; (ii) Tham ô; (iii) Đánh bạc; (iv) Cố ý gây thương tích; (v) Sử dụng ma túy trong phạm vi nơi làm việc; (vi) Tiết lộ bí mật kinh doanh, bí mật công nghệ, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của NSDLĐ; hoặc (vii) Có hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng về tài sản, lợi ích của NSDLĐ; (viii) Quấy rối tình dục tại nơi làm việc được quy định trong NQLĐ; (ix) Đã bị xử lý kỷ luật kéo dài thời hạn nâng lương hoặc cách chức mà tái phạm trong thời gian chưa xóa kỷ luật; hoặc (x) Tự ý bỏ việc 05 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày hoặc 20 ngày cộng dồn trong thời hạn 365 ngày tính từ ngày đầu tiên tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng.

Như vậy, ví dụ như trong trường hợp NLĐ bị xử lý hình sự về tội xâm phạm quyền bình đẳng giới nhưng hành vi này lại không thuộc các hành vi vi phạm mà NSDLĐ được BLLĐ cho phép áp dụng hình thức kỷ luật sa thải cho nên NSDLĐ sẽ không được quyền áp dụng hình thức sa thải đối với NLĐ vi phạm đó. Như vậy, vấn đề cần lưu ý ở đây là, nếu NSDLĐ muốn xử lý KLLĐ đối với NLĐ vi phạm theo hình thức sa thải thì phải chứng minh được rằng NLĐ đã vi phạm một trong các hành vi vi phạm được quy định tại Điều 125 BLLĐ trên cơ sở các hành vi đó đã được quy định trong NQLĐ của doanh nghiệp hay trong HĐLĐ. Bên cạnh đó, NSDLĐ cũng phải tuân thủ nghiêm ngặt các bước thủ tục trong quy trình xử lý KLLĐ đối với NLĐ theo quy định của BLLĐ. Chỉ khi nào thỏa mãn được đầy đủ cả hai điều kiện nêu trên, NSDLĐ mới có đủ cơ sở pháp lý tiến hành thủ tục sa thải NLĐ.