Thuế suất ưu đãi
Trong bối cảnh mở cửa nền kinh tế, Việt Nam trở thành thị trường tiềm năng cho việc nhập khẩu dịch vụ từ nước ngoài. Trên thực tế, hoạt động nhập khẩu dịch vụ diễn ra khá mạnh ở nhiều ngành, lĩnh vực. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, hoạt động xuất khẩu dịch vụ từ Việt Nam ra nước ngoài còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân thì nhiều nhưng phần lớn tập trung ở việc chúng ta chưa tạo được niềm tin ở khách hàng về chất lượng sản phẩm dịch vụ do hạn chế về trình độ, nghiệp vụ, kinh nghiệm.
Hiện nay, số lượng sản phẩm dịch vụ xuất khẩu còn tương đối ít. Trước thực trạng trên, để khuyến khích việc xuất khẩu dịch vụ thu ngoại tệ, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, trong đó có chính sách ưu đãi về thuế GTGT. Theo đó, dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất GTGT 0% như hàng hóa xuất khẩu. Việc áp dụng mức thuế suất trên giúp giảm giá thành dịch vụ xuất khẩu, từ đó làm tăng cơ hội cạnh tranh cho các sản phẩm dịch vụ của Việt Nam. Ngoài ra, nó còn giúp doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ có thể được khấu trừ hay được hoàn lại số thuế GTGT đầu vào của các loại hàng hóa, dịch vụ mà họ đã mua trong nước cho việc xuất khẩu dịch vụ. Từ đó, doanh nghiệp có thêm điều kiện tài chính để đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ nhân sự, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng tính cạnh tranh bên cạnh ưu thế về giá thành dịch vụ.
Tiếp cận thuế suất ưu đãi: Còn nhiều vướng mắc
Tuy nhiên, để chính sách thuế trên hiệu quả, việc xây dựng các tiêu chí cơ bản nhằm xác định khi nào thì dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất GTGT 0% lại không rõ ràng. Điều này gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu dịch vụ trong việc nhận biết doanh nghiệp mình có thuộc diện được hưởng thuế suất ưu đãi không, từ đó ảnh hưởng đến việc hoạch toán lợi nhuận trong hoạt động kinh doanh cũng như gây khó khăn trong hoạt động kê khai và nộp thuế của doanh nghiệp.
Trước thời điểm 01/01/2009, bên cạnh hai điều kiện phụ là: (i) phải có hợp đồng ký với người mua ở nước ngoài theo quy định của Luật thương mại; và (ii) người mua nước ngoài thanh toán tiền dịch vụ cho cơ sở cung cấp dịch vụ tại Việt Nam (điểm 3 của Thông tư 84/2004/TT-BTC ngày 18/8/2004 sửa đổi, bổ sung Thông tư 120/2003/TT-BTC) thì điều kiện tiên quyết cho việc doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ được áp dụng mức thuế suất GTGT 0% là dịch vụ phải được “tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên, khái niệm này lại không được định nghĩa hay hướng dẫn cụ thể dẫn đến tình huống là các cơ quan thuế địa phương mỗi nơi giải thích một kiểu trong một thời gian dài. Có nơi giải thích “dịch vụ tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam” là dịch vụ được tiêu dùng ở nước ngoài, không dính dáng gì đến Việt Nam hay nếu dịch vụ đó phục vụ cho lợi ích của tổ chức nước ngoài tại Việt Nam thì sẽ không được coi là tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam. Một số nơi còn giải thích rộng hơn qua việc chỉ cần dịch vụ đó có liên quan, hay đề cập đến Việt Nam là có thể được xem như tiêu dùng tại Việt Nam rồi. Ví dụ: Công ty A được thành lập theo luật nước ngoài có sử dụng dịch vụ nghiên cứu thị trường Việt Nam của Công ty tư vấn B tại Việt Nam trong giai đoạn chuẩn bị thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam. Sau khi hoàn tất việc cung cấp dịch vụ, Công ty B xuất hóa đơn GTGT 0% cho Công ty A. Cuối năm, khi kiểm tra thanh quyết toán Công ty B, cơ quan thuế địa phương đã không đồng ý việc xuất hóa đơn GTGT 0% vì cho rằng việc nghiên cứu thị trường dù là cung cấp cho Công ty A nhưng lại phục vụ cho mục đích thành lập công ty con của Công ty A tại Việt Nam và như vậy dịch vụ đó vẫn được xem là được tiêu dùng tại Việt Nam và phải chịu mức thuế suất 10% thay vì 0% và Công ty B phải trả cho nhà nước 10% thuế GTGT đó. Không còn cách nào khác, Công ty B quay lại đòi Công ty A phần tiền thuế này nhưng Công ty A không chịu trả vì họ đã quyết toán toàn bộ chi phí thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam với bộ phận kế toán tập đoàn rồi, cũng như cho rằng Công ty B phải biết rõ quy định về thuế GTGT của Việt Nam khi cung cấp dịch vụ cho họ. Sau cùng, Công ty B buộc phải “ôm” luôn số tiền 10% thuế GTGT mà đáng ra Công ty A phải chịu và lại còn bị phạt vi phạm hành chính vì nộp chậm tiền thuế GTGT nữa.
Từ thời điểm 01/01/2009 trở đi, nhằm tránh việc giải thích không thỏa đáng khái niệm “tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam”, khoản 1, điều 6, Nghị định 123/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/12/2008 (“Nghị Định 123”) và điểm 1 mục II phần B Thông tư số 129/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26/12/2008 (“Thông Tư 129”) hướng dẫn Nghị Định 123 đã giới thiệu tiêu chuẩn mới là tổ chức ở nước ngoài “không có cơ sở thường trú tại Việt Nam” để được hưởng thuế suất thuế GTGT 0% đối với dịch vụ xuất khẩu nói chung (trừ một số dịch vụ không được hưởng thuế suất 0% ví dụ như tái bảo hiểm ra nước ngoài; chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài).
Cụ thể, Thông Tư 129 hướng dẫn: “Dịch vụ xuất khẩu bao gồm dịch vụ được cung ứng trực tiếp cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài”. Tổ chức ở nước ngoài được giải thích là tổ chức ở nước ngoài không có cơ sở thường trú (“CSTT”) tại Việt Nam, không phải là người nộp thuế GTGT tại Việt Nam. Thông tư 129 còn hướng dẫn thêm hai điều kiện nữa để được áp dụng thuế suất 0% đối với dịch vụ xuất khẩu là (i) phải có hợp đồng cung ứng dịch vụ với tổ chức, cá nhân ở nước ngoài; và (ii) phải có chứng từ thanh toán tiền dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng và các chứng từ khác theo quy định của pháp luật.
Gỡ mà vẫn rối
Thông Tư 129 lại vấp phải rắc rối là không hướng dẫn làm thế nào để xác định được tổ chức ở nước ngoài không có CSTT tại Việt Nam tại thời điểm ký hợp đồng dịch vụ với bên cung cấp dịch vụ tại Việt Nam. Điều này thật sự gây khó khăn cho cả cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc thực hiện yêu cầu này.
Điều 2 Nghị Định 123 và Công văn 3824/TCT-CS của Tổng Cục thuế ngày 18/09/2009 (“Công Văn 3824”) có hướng dẫn khái niệm “CSTT tại Việt Nam”. Theo đó, khái niệm này được xác định theo quy định có liên quan của pháp luật về thuế TNDN và quy định tại văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các nước. Tiếp đến là Công văn 2061/TCT- CS của Tổng Cục thuế ngày 14/06/2010 (“Công Văn 2061”) cũng khẳng định là không còn quy định về việc dịch vụ xuất khẩu cung cấp cho tổ chức ở nước ngoài chỉ được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% khi đáp ứng điều kiện dịch vụ được tiêu dùng ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Thoại nhìn, có vẻ như Nghị Định 123, Công Văn 3824 và Công văn 2061 đã có thể giải đáp được thắc mắc và giảm được khó khăn cho người nộp thuế. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, tình thế khó khăn của các tổ chức cung cấp dịch vụ tại Việt Nam vẫn còn đó.
Theo Thông tư 130/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 26/12/2008 (“Thông Tư 130”) về thuế TNDN, CSTT của doanh nghiệp nước ngoài là cơ sở sản xuất, kinh doanh mà thông qua cơ sở này, doanh nghiệp nước ngoài tiến hành một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mang lại thu nhập[1]. Nếu ký hợp đồng cung cấp dịch vụ với các tổ chức ở những nước có ký kết hiệp định tránh đánh thuế hai lần với Việt Nam thì sẽ áp dụng theo các quy định của hiệp định tránh đánh thuế hai lần đó. Mỗi Hiệp định tránh đánh thuế hai lần lại có quy định khác nhau về CSTT nhưng nhìn chung cũng không khác là mấy so với định nghĩa CSTT của Thông Tư 130.
Tuy nhiên, dù có định nghĩa khá rõ về CSTT như nêu ở trên, trong thực tiễn,vào thời điểm ký hợp đồng dịch vụ với các tổ chức ở nước ngoài, bên cung cấp dịch vụ ở Việt Nam không tài nào biết được là bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài có CSTT tại Việt Nam hay không, chỉ khi có khẳng định của bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài về việc họ không có CSTT nào ở Việt Nam thì mới xuất hóa đơn GTGT 0%. Dù vậy, do sự định nghĩa của khái niệm CSTT khá rộng, một số bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài dù muốn cũng không thể chắc chắn được là họ có CSTT tại Việt Nam tại thời điểm ký kết hay trong thời gian thực hiện hợp đồng dịch vụ hay không, đặc biệt trong trường hợp các bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài là các công ty đa quốc gia, có nhiều nhánh kinh doanh, mỗi nhánh kinh doanh hoạt động độc lập với nhau và do đó họ khó có thể rà soát, kiểm tra hết được là có nhánh kinh doanh nào đó của họ có CSTT tại Việt Nam hay không. Trong một số trường hợp mà số tiền thuế GTGT phải trả lớn, bên cung cấp dịch vụ Việt Nam thay mặt bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài hay chính bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài nộp đơn lên cơ quan thuế Việt Nam xin được xác nhận là họ không có CSTT tại Việt Nam nhưng thường thì yêu cầu này không được đáp ứng vì hiện không có cơ chế để cơ quan thuế cấp cho bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài giấy xác nhận không có CSTT tại Việt Nam trong trường hợp này. Thậm chí, nếu có cơ chế để cấp giấy xác nhận đi nữa thì cơ quan thuế Việt Nam cũng khó mà kiểm tra một cách thấu đáo là vào thời điểm đó, bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài đó có CSTT tại Việt Nam hay không. Hơn thế nữa, vì tính phức tạp của nó, thời gian chờ đợi được cấp giấy xác nhận (nếu có) hẳn sẽ rất lâu, mà các bên ký kết hợp đồng đôi khi không thể chờ đợi được vì sự cấp bách của giao dịch mà họ muốn giao kết.
Do vậy, để giảm thiểu rũi ro, trong thực tiễn bên cung cấp dịch vụ Việt Nam, trong một số trường hợp mà mức lợi nhuận thu được từ việc cung cấp dịch vụ không cao (dưới 10%), đã yêu cầu điều kiện tiên quyết cho việc ký kết hợp đồng là phải được xuất hóa đơn thuế GTGT 10%. Đối với một số trường hợp khác, hai bên thỏa thuận rằng bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài sẽ cam kết bằng văn bản việc họ không có CSTT tại Việt Nam. Nếu sau khi xem xét, cơ quan thuế khẳng định bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài có CSTT tại Việt Nam vào thời điểm ký kết hợp đồng dịch vụ hay trong trong thời gian thực hiện hợp đồng thì họ sẽ hoàn lại tiền thuế GTGT cho phía Việt Nam. Tuy nhiên, điều này cũng không làm giảm thiểu rủi ro nhiều cho bên cung cấp dịch vụ Việt Nam vì việc kê khai và trả thuế hiện nay là theo cơ chế tự khai, tự nộp. Chỉ một thời gian tương đối lâu sau khi xuất hóa đơn cho bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài thì cơ quan thuế mới thanh quyết toán thuế của bên cung cấp dịch vụ Việt Nam (có thể là 2 – 3 năm sau đó). Nếu vào thời điểm đó, cơ quan thuế xác định được bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài đó có CSTT tại Việt Nam thì có thể đã quá muộn cho bên cung cấp dịch vụ Việt Nam yêu cầu bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài đó hoàn trả lại số thuế GTGT đã nộp vì họ có thể không còn giao dịch kinh doanh với bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài đó nữa, hoặc bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài, vì lý do nào đó, không còn tồn tại nữa để bên Việt Nam có thể yêu cầu họ thanh toán khoản thuế 10% nói trên.
Cần một hướng dẫn dễ áp dụng và thực tế hơn
Để giải quyết dứt điểm những vướng mắc mà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Việt Nam gặp phải, nhà nước nên xem xét lại việc xác định tiêu chí CSTT để áp dụng mức thuế suất 0% cho dịch vụ xuất khẩu. Nếu vẫn muốn duy trì tiêu chí CSTT để xác định dịch vụ thực tế có xuất khẩu hay không thì cần có cơ chế để bên cung cấp dịch vụ tại Việt Nam có thể xác định được tình trạng của đối tác nước ngoài, qua đó xác định được chính xác nghĩa vụ thuế của giao dịch.
Ngược lại, nếu việc xác định tình trạng CSTT là khó khả thi thì nên chăng xem xét việc thu hẹp khái niệm CSTT tại Việt Nam. Điều này vừa có ý nghĩa tạo sự dễ dàng hơn trong việc xác định có hay không có CSTT của bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài tại Việt Nam lại vừa có ý nghĩa mở rộng diện được hưởng ưu đãi thuế GTGT của các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ, nhất là đối với các giao dịch mà doanh nghiệp không được hưởng thuế suất ưu đãi chỉ vì bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài có CSTT ở Việt Nam mà hoạt động của CSTT này hầu như không ảnh hưởng đến tính chất “xuất khẩu dịch vụ” của giao dịch.
Trong trường hợp Nhà nước thấy cần khuyến khích hơn nữa hoạt động xuất khẩu dịch vụ, việc sử dụng tiêu chí CSTT tại Việt Nam là không cần thiết nữa, hoàn toàn có thể xác định sản phẩm dịch vụ đã được xuất khẩu thông qua việc yêu cầu phải có hợp đồng cung ứng dịch vụ giữa tổ chức Việt Nam với bên yêu cầu dịch vụ ở nước ngoài và chứng từ thanh toán tiền dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng cũng như các chứng từ khác theo quy định của pháp luật.
Nếu bạn cần thêm thông tin để biết công ty chúng tôi có thể hỗ trợ bạn về những vấn đề về Thuế, xin vui lòng liên hệ trực tiếp đến số: +84 (28) 3622 3522 hoặc email cho chúng tôi tại: info@phuoc-associates.com
Luật sư Nguyễn Hữu Phước – Công ty luật Phước & Các Đồng Sự
—
[1] Theo Thông tư số 130/2008/TT-BTC, CSTT bao gồm: – Chi nhánh, văn phòng điều hành, nhà máy, công xưởng, phương tiện vận tải, hầm mỏ, mỏ dầu, khí hoặc địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên khác tại Việt Nam; – Địa điểm xây dựng, công trình xây dựng, lắp đặt, lắp ráp; – Cơ sở cung cấp dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn thông qua người làm công hay một tổ chức, cá nhân khác; – Đại lý cho doanh nghiệp nước ngoài; – Đại diện tại Việt Nam trong trường hợp là đại diện có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài hoặc đại diện không có thẩm quyền ký kết hợp đồng đứng tên doanh nghiệp nước ngoài nhưng thường xuyên thực hiện việc giao hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ tại Việt Nam.