Thủ tục tố tụng theo thủ tục rút gọn là thủ tục xét xử chỉ do một Thẩm phán tiến hành[1]. Hay có thể hiểu nôm na là thủ tục tố tụng theo thủ tục rút gọn có trình tự thủ tục đơn giản hơn so với những quy trình thủ tục thông thường. Đây được xem như một bước tiến mới trong thủ tục tố tụng và xét xử được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Điều này hỗ trợ cho việc xét xử được tiến hành một cách nhanh chóng với trình tự đơn giản hơn so với thủ tục thông thường nhưng vẫn bảo đảm giải quyết đúng quy định của pháp luật. Cụ thể, Luật Tố tụng dân sự nói chung quy định rõ điều kiện để một vụ án dân sự được xét xử rút gọn là phải thỏa mãn tất cả các điều kiện sau đây[2]:
- Vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ; tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm có đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ. Đối với điều kiện này, hiện nay chưa có bất cứ văn bản pháp luật nào hướng dẫn về cách hiểu thế nào là “vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, đương sự đã thừa nhận nghĩa vụ”. Do đó, trên thực tế, việc xem xét, đánh giá một vụ án có đủ điều kiện này hay không phụ thuộc vào quan điểm xét xử mỗi Tòa án và vụ án cụ thể, từ đó, có khả năng có sự thiếu thống nhất giữa các cấp tòa. Tương tự, đối với điều kiện “tài liệu, chứng cứ đầy đủ, bảo đảm đủ căn cứ để giải quyết vụ án và Tòa án không phải thu thập tài liệu, chứng cứ”, hiện nay cũng chưa có quy định hướng dẫn chính thức nào từ Tòa án Nhân dân tối cao nên khả năng đánh giá của Thẩm phán đôi khi không đủ chuẩn xác hoặc có sự đánh giá khác nhau giữa các cấp xét xử và dễ làm cho vụ án chuyển từ thủ tục tố tụng rút gọn sang thủ tục tố tụng thông thường khi xét xử ở cấp phúc thẩm[5].
- Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú rõ ràng; và
- Không có bên nào cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài trừ trường hợp một bên ở nước ngoài và một bên ở Việt Nam có thỏa thuận đề nghị Tòa án giải quyết theo thủ tục rút gọn hoặc các bên đã xuất trình được chứng cứ về quyền sở hữu hợp pháp tài sản và có thỏa thuận thống nhất về việc xử lý tài sản.
Thủ tục rút gọn sẽ giúp rút ngắn đáng kể thời gian xét xử cũng như thực hiện các thủ tục so với thủ tục xét xử vụ án thông thường. Chẳng hạn, thời hạn chuẩn bị xét xử theo thủ tục rút gọn ở cấp sơ thẩm chỉ là 01 tháng. Do đó, Tòa án chỉ có thể áp dụng thủ tục xét xử rút gọn khi vụ án đáp ứng đầy đủ các điều kiện được nêu ở trên.
Trong vụ án ly hôn, Tòa án chỉ tiến hành thủ tục rút gọn khi vụ án ly hôn đáp ứng đủ các điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn đối với một vụ án dân sự nói chung. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử, nhiều Tòa án vẫn chưa áp dụng thủ tục rút gọn trong các vụ án ly hôn một phần vì các quy định chưa rõ ràng như được phân tích ở trên, một phần vì tính chất khác biệt của vụ án ly hôn so với các vụ án dân sự khác. Một số điểm đặc biệt thường có trong vụ án ly hôn dẫn đến việc khó áp dụng thủ tục rút gọn như sau:
- Một trong các điều kiện áp dụng đó là “Các đương sự đều có địa chỉ nơi cư trú, trụ sở rõ ràng”. Nhưng trong các vụ án ly hôn, do đặc điểm có sự mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, các bên thường không còn sống chung với nhau, một người có thể đã rời khỏi nơi cư trú thường xuyên của vợ chồng và giấu biệt tung tích với người còn ở lại. Khi đó, vụ án ly hôn khó có thể xác định được địa chỉ nơi cư trú của cả vợ chồng dẫn đến việc không đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết;
- Đặc điểm thứ hai thường thấy trong các vụ án ly hôn là các tranh chấp về tài sản và nghĩa vụ của vợ chồng. Quan hệ về tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thường là các quan hệ đan xen, khó xác định một cách rõ ràng công sức đóng góp của mỗi người. Do đó, Tòa án sẽ phải xác minh, làm rõ các tình tiết vụ án, có thể phải áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ để giải quyết trong trường hợp này. Chẳng hạn, nếu vụ án cần định giá, thẩm định giá tài sản tranh chấp mà các đương sự không thống nhất được về giá, hoặc phát sinh trường hợp các bên cư trú ở nước ngoài, tài sản tranh chấp ở nước ngoài, yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ ở nước ngoài mà cần thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp thì Tòa án phải áp dụng thủ tục thông thường để giải quyết. Trên thực tế, điều đó sẽ làm cho vụ án ly hôn thường khó có thể giải quyết theo thủ tục rút gọn được.
Ngoài ra, việc đặt ra các điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn nhằm đảm bảo
tính chính xác, khách quan, minh bạch, không ảnh hưởng xấu đến quyền và nghĩa vụ
của các bên. Pháp luật quy định các bên có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị đối với quyết định
xét xử vụ án theo thủ tục rút gọn trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được quyết định tới Chánh án Tòa án đã ra quyết định. Trong quá trình xét xử vụ
án theo thủ tục rút gọn, nếu xuất hiện tình tiết mới khiến cho vụ án không còn
đảm bảo các điều kiện để được xét xử theo thủ tục rút gọn thì Tòa án phải giải
quyết vụ án theo thủ tục thông thường.
[1] Điều 65 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[2] Điều 319.1 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
[5] Võ Thị Ánh Trúc, “Thực tiễn áp dụng thủ tục rút gọn trong giải quyết vụ án dân sự và giải pháp, kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Tòa án Nhân dân ngày 14/09/2019, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/thuc-tien-ap-dung-thu-tuc-to-tung-rut-gon-trong-giai-quyet-vu-an-dan-su-va-giai-phap-kien-nghi-hoan-thien.
Nếu bạn muốn biết thêm thông tin về cách chúng tôi có thể hỗ trợ bạn về các vấn đề về ly hôn, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi theo số điện thoại: +84 (28) 36223522 hoặc email cho chúng tôi tại info@phuoc-partner.com.