Hà Anh Thư, Chu Huệ Mẫn & Luật sư Nguyễn Hữu Phước
Nhượng quyền thương mại (“NQTM”) có thể được xem là một lựa chọn tối ưu của các cá nhân, tổ chức quy mô vừa và nhỏ, đặc biệt là sau ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid 19 lên nền kinh tế. Bên cạnh những lợi ích có thể tận dụng như danh tiếng, nguồn khách hàng, sản phẩm hoàn thiện, quy trình có sẵn, v.v… các tổ chức, cá nhân cần lưu ý đến các vấn đề pháp lý cần thiết để mối quan hệ nhượng quyền thương mại được tiến hành một cách thuận lợi.
Nhượng quyền thương mại theo quy định của pháp luật Việt Nam
Luật Thương mại 2005 quy định rằng nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại mà theo đó Bên nhượng quyền thương mại cho phép và yêu cầu Bên nhận quyền tự mình tiến hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ khi đáp ứng được những điều kiện luật định[1].
Có thể hiểu rằng, mối quan hệ giữa hai bên trong nhượng quyền thương mại là mối quan hệ song vụ – đôi bên cùng hưởng những lợi ích cũng như thực hiện nghĩa vụ tương ứng.
Bên nhượng quyền có thể mở rộng kinh doanh, tăng độ nhận diện cho doanh nghiệp bằng cách quảng cáo cho hệ thống và mạng lưới NQTM và chịu trách nhiệm đào tạo, trợ giúp kỹ thuật, cung ứng dịch vụ đối với Bên nhận quyền.
Mặt khác, Bên nhận quyền có thể giảm bớt gánh nặng trong việc xây dựng thương hiệu cũng như thiết lập quy trình vận hành độc lập và thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng nhượng quyền đối với Bên nhượng quyền cũng như đảm bảo đầu tư cơ sở vật chất, giữ bí mật kinh doanh và quyền sở hữu trí tuệ.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại là cơ sở pháp lý phát sinh mối quan hệ NQTM. Đối tượng của hợp đồng NQTM là quyền thương mại đối với những sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh chứ không phải bản thân của những sản phẩm, dich vụ đó.
Quyền và nghĩa vụ của các bên cũng như chi phí nhượng quyền thương mại và các điều kiện có liên quan khác được hai bên thỏa thuận nhưng phải đảm bảo đáp ứng quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại[2].
Những lưu ý cho Bên nhận quyền sau mùa hậu Covid 19
- Lựa chọn lĩnh vực phù hợp và cân nhắc việc áp dụng công nghệ vào kinh doanh
Tác hại của đại dịch Covid 19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng lên nền kinh tế. Tuy nhiên, trong thời điểm dịch bệnh, một số ngành, nghề vẫn hoạt động mạnh mẽ có thể kể đến như kinh doanh thực phẩm, dụng cụ y tế, các sản phẩm khử khuẩn …v.v.
Do đó, nếu doanh nghiệp muốn bắt đầu mối quan hệ nhượng quyền thương mại thì nên ưu tiên xem xét những ngành, nghề kinh doanh nổi bật như nên trên để định hướng hoạt động.
Bên cạnh đó, Covid 19 cũng cho ta thấy được tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ trong quá trình kinh doanh.
Việc bị hạn chế hoạt động và chỉ được phép ra ngoài trong trường hợp thật sự cần thiết khi dịch bệnh lây lan khiến cho cuộc sống gần như phụ thuộc vào những dịch vụ, ứng dụng giao hàng.
Do đó, việc số hóa quy trình làm việc, đa dạng hóa kênh doanh thu vừa là một sự chuẩn bị cần thiết cho các doanh nghiệp để tránh việc bị đóng băng hoạt động trong tương lai, vừa có thể xúc tiến thương mại, mở rộng tệp khách hàng và nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, trong mối quan hệ NQTM, Bên nhận quyền bị ràng buộc bởi Bên nhượng quyền về cách thức tổ chức kinh doanh[3].
Cho nên, Bên nhận quyền nên lưu ý nghiên cứu rõ quy trình vận hành cũng như khả năng ứng dụng công nghệ vào hoạt động và thỏa thuận cụ thể với Bên nhượng quyền ngay từ đầu cũng như ghi nhận rõ ràng trong hợp đồng.
Tìm hiểu kỹ thông tin và tư cách pháp nhân của Bên nhượng quyền thương mại
Hiện nay có khá nhiều trường hợp các bên trong mối quan hệ nhượng quyền thương mại “ôm tiền bỏ trốn” khi không thể hoàn thành nghĩa vụ đã giao, mà một trong những nguyên nhân chính là việc kinh doanh thua lỗ do tác động của dịch bệnh Covid-19.
Trong số đó có vụ nhà đầu tư mất trắng khi đổ tiền vào S.Tix Coffee[4]. Thị trường kinh doanh nhượng quyền thương mại đương nhiên ít nhiều đối mặt với những rủi ro pháp lý tương tự vì cùng lý do.
Để tránh những rủi ro như trên gây tổn thất đến quyền lợi của mình, Bên nhận quyền cần tìm hiểu, xác nhận rằng Bên nhượng quyền có đáp ứng đủ các điều kiện mà pháp luật quy định[5] không, bao gồm: đã hoạt động được 01 năm, đã đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền, và hàng hóa dịch vụ thuộc đối tượng của quyền thương mại.
Hơn nữa, Bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu về NQTM của mình cho Bên dự kiến nhận quyền ít nhất là 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng NQTM[6].
Bên nhận quyền cần nắm rõ và yêu cầu Bên nhượng quyền thực hiện nghĩa vụ này càng sớm càng tốt để có thể có thời gian xác nhận những thông tin được cung cấp.
Lưu ý về “sự kiện bất khả kháng” trong hợp đồng nhượng quyền thương mại
Các Bên nhận quyền thường dựa vào sự bùng phát dịch bệnh Covid-19 như một sự kiện bất khả kháng nhằm giảm bớt gánh nặng cho chính mình khi mà họ không thể hoặc không muốn thực hiện các nghĩa vụ hợp đồng nữa.
Quy định của pháp luật hiện hành chỉ nêu các yếu tố mà một sự kiện được xem là bất khả kháng nếu thỏa mãn được tất cà các điều kiện sau đây:
(i) là sự kiện khách quan;
(ii) không thể lường trước được; và
(iii) không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết[7]. Như chúng ta đã thấy, dịch bệnh Covid-19 lây lan nhanh chóng là một sự kiện “khách quan” và “không thể lường trước được”. Mặc dù thỏa mãn được hai yếu tố của một sự kiện bất khả kháng nhưng dịch bệnh Covid-19 có được xem là sự kiện bất khả kháng hay không còn phụ thuộc vào thỏa thuận giữa các Bên trong hợp đồng và yếu tố không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết.
Lúc này, Bên nhận quyền cần chứng minh được nghĩa vụ của mình không thể hoàn thành vì dịch bệnh Covid-19 để có thể miễn trừ trách nhiệm.
Trong mối quan hệ NQTM, trường hợp nào thì Bên nhận quyền được quyền viện dẫn dịch bệnh Covid-19 như một sự kiện bất khả kháng khi không thực hiện đúng nghĩa vụ được giao kết trong hợp đồng?
Trường hợp 1: các bên có thỏa thuận dịch bệnh là một trong những sự kiện bất khả kháng trong hợp đồng
Như đã phân tích ở trên, dịch bệnh Covid-19 không được nghiễm nhiên được xem như là sự kiện bất khả kháng nếu như các Bên không thỏa thuận trong hợp đồng và Bên nhận quyền phải chứng minh được nghĩa vụ của họ không thể thực hiện được vì sự kiện dịch bệnh này xảy ra bằng những bằng tài liệu hoặc con số tổn thất cụ thể. Nếu hai Bên đã có thỏa thuận này trong hợp đồng thì rủi ro và gánh nặng của Bên nhận quyền sẽ được giảm đi rất nhiều.
Lúc này, hai bên có thể thoả thuận “kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hoặc từ chối thực hiện hợp đồng”[8]. Trong trường hợp có tranh chấp xảy ra, thỏa thuận về sự kiện bất khả kháng của các Bên sẽ là cơ sở cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đối chiếu để miễn trừ trách nhiệm cho Bên nhận quyền.
Trường hợp 2: các Bên không có thỏa thuận dịch bệnh là một trong những sự kiện bất khả kháng trong hợp đồng
Dịch bệnh Covid-19 không đương nhiên được xem là sự kiện bất khả kháng nếu hợp đồng NQTM giữa các Bên không có thỏa thuận và sự kiện đó không thỏa mãn đủ ba yếu tố của một sự kiện bất khả kháng theo luật định.
Trong trường hợp này, các Bên phải thực hiện nghĩa vụ theo đúng những gì đã ký kết trước đó và khi có bất kỳ sự hiệu chỉnh, bổ sung nào thì các Bên thỏa thuận với nhau thành lập một văn bản thỏa thuận đính kèm theo hợp đồng gốc.
Như vậy, để được miễn trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng thì bên bị ảnh hưởng trực tiếp từ dịch bệnh vẫn có nghĩa vụ phải chứng minh về trường hợp miễn trách nhiệm của mình[9].
Đồng thời, tùy vào hoàn cảnh cụ thể để đánh giá xem dịch bệnh Covid-19 có phải là sự kiện bất khả kháng ảnh hưởng tới việc thực hiện hợp đồng hay không. Cụ thể trong bản án về tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động số 01/2021/LĐ-ST[10], dịch bệnh Covid-19 đã không được Tòa án xem như là sự kiện bất khả kháng vì người sử dụng lao động không chứng minh được việc mình đã dùng mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc.
Trong thực tiễn giao kết hợp đồng NQTM, Bên nhận quyền nên đặc biệt lưu ý điều khoản về sự kiện bất khả kháng này, cần có những tiên liệu nhất định đối với yếu tố khách quan tương tự như dịch bệnh Covid-19 để từ đó giảm thiểu tối đa phát sinh những tranh chấp. Đồng thời, khi đàm phán, soạn thảo hợp đồng, Bên nhận quyền cũng cần hiểu rõ các quy định pháp luật về miễn trừ trách nhiệm nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tóm lại, các doanh nghiệp muốn quay trở lại nền kinh tế ở thời điểm hậu dịch bệnh Covid-19 này cần thật sự cẩn trọng và có cái nhìn đa chiều nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro. Thêm vào đó là nỗ lực xây dựng một doanh nghiệp vững mạnh và linh hoạt để có thể ứng biến trước những hoàn cảnh bất ngờ.
Bài viết trên được soạn thảo dựa vào những kiến thức chuyên môn pháp luật cũng như kinh nghiệm 25 năm hành nghề luật sư của tôi. Nếu bạn thấy bài viết trên là hữu ích cho bạn, xin ủng hộ tôi bằng một cú click chuột vào webiste của Công ty luật Phuoc & Partners www.phuoc-partner.com. Cám ơn bạn rất nhiều và chúc bạn thành công trong công việc của mình. Thân ái.
[1] Điều 284 Luật Thương mại 2005
[2] Điều 11 Nghị định 15/VBHN-BCT
[3] Điều 284.1 Luật Thương mại 2005
[4] https://congan.com.vn/song-theo-phap-luat/hotboy-stix-coffee-biet-tam-cung-hang-tram-ty-dong-huy-dong-von-trai-phep_124845.html
[5] Điều 5 Nghị định 15/VBHN-BCT
[6] Điều 8.1 Nghị định 15/VBHN-BCT
[7] Điều 156.1 Bộ luật dân sự 2015
[8] Điều 296 Luật thương mại 2005
[9] Điều 295 Luật Thương mại 2005
[10] https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-tranh-chap-don-phuong-cham-dut-hop-dong-so-012021ldst-182323