Câu hỏi 1: Trong vụ án ly hôn, trong những trường hợp nào thì vợ hoặc chồng được quyền yêu cầu Tòa án cho trưng cầu giám định sức khỏe hay ADN của người còn lại? Thời kỳ sống chung như vợ chồng trước khi có giấy đăng ký kết hôn có được tính vào thời kỳ hôn nhân không? Thời kỳ ly thân có được trừ ra khỏi thời kỳ hôn nhân không? Thời kỳ từ lúc nộp hồ sơ xin ly hôn cho đến khi có quyết định cho ly hôn có giá trị pháp luật của Tòa án có được trừ ra khỏi thời kỳ hôn nhân không?

Theo quy định tại Điều 3.13 của Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thời kỳ hôn nhân là khoảng thời gian tồn tại quan hệ vợ chồng, được tính từ ngày đăng ký kết hôn cho đến ngày chấm dứt hôn nhân. Theo đó, quan hệ hôn nhân sẽ chấm dứt khi xảy ra một trong các sự kiện sau: (i) kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết; hoặc (ii) kể từ ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật. Như vậy, thời kỳ hôn nhân sẽ được tính từ thời điểm đăng ký kết hôn cho đến ngày vợ hoặc chồng chết hoặc đến ngày bản án, quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật và thời gian từ lúc nộp hồ sơ xin ly hôn đến khi có quyết định cho ly hôn có giá trị pháp luật của Tòa án và thời kỳ ly thân đều không được loại trừ khỏi thời kỳ hôn nhân.

Như đã phân tích ở trên, thời kỳ hôn nhân được bắt đầu tính từ ngày đăng ký kết hôn. Đồng thời, theo quy định tại Điều 14 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, trong trường hợp nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn nhưng sau đó thực hiện việc đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật thì quan hệ hôn nhân sẽ được xác lập từ thời điểm đăng ký kết hôn. Do đó, thời kỳ sống chung như vợ chồng trước khi có giấy đăng ký kết hôn sẽ không được tính vào thời kỳ hôn nhân.

Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử và xã hội Việt Nam từ trước năm 1987 có nhiều biến động, nên có nhiều trường hợp nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng nhưng không thể và không có điều kiện để đăng ký kết hôn. Đối với trường hợp ngoại lệ này, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP quy định: “Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 (ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 có hiệu lực) mà chưa đăng ký kết hôn, nếu một bên hoặc cả hai bên có yêu cầu ly hôn, thì Tòa án thụ lý vụ án và áp dụng quy định về ly hôn của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết vụ án ly hôn theo thủ tục chung. Cần chú ý là trong trường hợp sau khi quan hệ vợ chồng đã được xác lập họ mới thực hiện việc đăng ký kết hôn, thì quan hệ vợ chồng của họ vẫn được công nhận kể từ ngày xác lập (ngày họ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng), chứ không phải chỉ được công nhận kể từ ngày đăng ký kết hôn.”

Vì vậy, từ những quy định trên, về nguyên tắc chung, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 không công nhận thời gian nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng trước khi đăng ký kết hôn là thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, trong trường hợp quan hệ hôn nhân được xác lập trước ngày 03 tháng 01 năm 1987 thì pháp luật vẫn công nhận thời kỳ bắt đầu chung sống với nhau như vợ chồng thuộc thời kỳ hôn nhân kể từ thời điểm sống chung với nhau mà không phải tính từ thời điểm đăng ký kết hôn như các trường hợp thông thường khác.

Nếu bạn muốn biết thêm thông tin về cách chúng tôi có thể hỗ trợ  bạn về các vấn đề về ly hôn, xin vui lòng liên hệ với chúng tôi theo số điện thoại: +84 (28) 36223522 hoặc email cho chúng tôi tại info@phuoc-partner.com.